Xin giúp Softbank 740sc

Thảo luận trong 'Japanese Mobile Phones' bắt đầu bởi badboy130690, 4 Tháng mười một 2010.

  1. phuong minwoo

    phuong minwoo Thành viên

    Bài viết:
    1
    Được Like:
    0
    link down file ở trên là dùng máy tính tải về hay dùng đt softbank tải về hả m.n?????????/ e vẫn chưa biết tn vào mạng đc mà k đọc đc j cả chán lắm
  2. bigsm

    bigsm Thành viên

    Bài viết:
    33
    Được Like:
    8
    có ai thanh lý lại 740sc hông?
  3. dichchinese

    dichchinese Thành viên

    Bài viết:
    1
    Được Like:
    0
    Cám ơn bạn nhiều..Đúng topic mình đang tìm từ lâu lắm rồi. Up phụ bạn luôn....
  4. minliu

    minliu Thành viên

    Bài viết:
    1
    Được Like:
    0
  5. luong.dt

    luong.dt Thành viên

    Bài viết:
    3
    Được Like:
    0
  6. maiducmn98

    maiducmn98 Thành viên

    Bài viết:
    4
    Được Like:
    0
    Crossy Road là một game mobile giải trí one-touch đơn giản và gây nghiện giải quyết câu hỏi “Tại sao con gà lại băng qua đường?” Chạm vào màn hình để di chuyển gia cầm trên đường đông đúc một cách gan dạ, đường ray phim xac song 5 xe lửa nguy hiểm, lội qua sông và các mối nguy hiểm khác.
  7. hungtranattom

    hungtranattom Thành viên

    Bài viết:
    1
    Được Like:
    0
    Cacbon Black (chữ Hán: chất Thán, than đá) là nhân tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu là C và số nguyên tử bằng 6. Là một nguyên tố phi kim có hóa trị 4 phổ quát, cacbon có nhiều dạng thù hình khác nhau, phổ quát nhất là 3 dạng thù hình gồmcacbon vô định hình, graphit và xoàn.

    Các sợi Cacbon Black là hao hao như cacbon thủy tinh. Dưới các xử lý đặc biệt (kéo dãn các sợi hữu cơ và cacbon hóa) nó có khả năng sắp đặt các mặt tinh thể cacbon theo hướng của sợi. Vuông góc với trục của sợi không có các mặt tinh thể cacbon. Kết quả là các sợi có độ bền đặc biệt cao hơn cả thép.

    Cacbon tồn tại trong mọi sự sống hữu cơ và nó là nền móng của hóa hữu cơ. Phi kim này còn có thuộc tính hóa học đáng chú ý là có khả năng tự kết liên với nó và kết liên với một loạt các yếu tố khác, tạo ra gần 10 triệu hợp chất đã biết. Khi kết liên với ôxy nó tạo ra cacbon điôxít là rất cần yếu đối với sự sinh trưởng của thực vật. Khi kết liên với hiđrô, nó tạo ra một loạt các hợp chất gọi là các hiđrôcacbon là rất quan trọng đối với công nghiệp trong dạng của các nhiên liệu hóa thạch. Khi liên kết với cả ôxy và hiđrô nó có thể tạo ra rất nhiều nhóm các hợp chất bao gồm các axít béo, là cần thiết cho sự sống, và este, tạo ra hương vị của nhiều loại hoa quả. Đồng vị cacbon-14 được sử dụng phổ quát trong xác định niên đại bằng phóng xạ.



    Các thù hình của cacbon là khác nhau về cấu trúc mạng nguyên tử mà các nguyên tử thuần khiết có thể tạo ra. Ba dạng được biết nhiều nhất là cacbon vô định hình, graphit và xoàn. Một số thù hình kỳ dị khác cũng đã được tạo ra hay phát hiện ra, bao gồm các fullerene, cacbon ống nano và lonsdaleit. Muội đèn bao gồm các bề mặt dạng graphit nhỏ. Các bề mặt này phân bổ ngẫu nhiên, nên chi cấu trúc tổng thể là đẳng hướng. Cacbon thủy tinh là đẳng hướng và có tỷ lệ độ xốp cao. Không giống như graphit thường ngày, các lớp graphit không xếp lên nhau giống như các trang sách, mà chúng có sự xếp đặt tình cờ.

    Ở dạng vô định hình, cacbon chính yếu có cấu trúc tinh thể của graphit nhưng không kết liên lại trong dạng tinh thể lớn. ngược lại, chúng cốt yếu nằm ở dạng bột và là thành phần chính của than, muội, mồ hóng, lọ nồi và than hoạt tính.

    Ở áp suất thường nhật cacbon có dạng của graphit, trong đó mỗi nguyên tử kết liên với 3 nguyên tử khác trong mặt phẳng tạo ra các vòng lục giác, giống như các vòng trong các hiđrôcacbon thơm. Có hai dạng của graphit đã biết, là alpha (lục giác) và beta (rhombohedral), cả hai có các tính chất vật lý giống nhau, trừ về cấu trúc tinh thể. Các loại graphit có cỗi nguồn tự nhiên có thể chứa tới 30% dạng beta, trong khi graphit tổng hợp chỉ có dạng alpha. Dạng alpha có thể chuyển thành dạng beta chuẩn y xử lý cơ học và dạng beta chuyển ngược thành dạng alpha khi bị nung nóng trên 1000 °C.

    Vì sự phi tụ hợp hóa của các đám mây pi, graphit có tính dẫn điện. vật liệu thành thử là mềm và các lớp, ngay bị tách ra bởi các nguyên tử khác, được giữ cùng nhau chỉ bằng các lực van der Waals, nên chúng dễ dàng trượt trên nhau.

    Ở áp suất cực kỳ cao các nguyên tử cacbon tạo thành thù hình gọi là xoàn, trong đó mỗi nguyên tử được kết liên với 4 nguyên tử khác. kim cương có cấu trúc lập phương như silic và gecmani và vì độ bền của các kết liên cacbon-cacbon, cùng với chất đẳng điện nitrua bo (BN) là những chất cứng nhất trong việc chống lại sự mài mòn. Sự chuyển hóa thành graphit ở nhiệt độ phòng là rất chậm và khong thể nhận thấy. Dưới các điều kiện khác, cacbon kết tinh như là Lonsdaleit, một dạng giống như kim cương nhưng có cấu trúc lục giác.

    Các fulleren có cấu trúc giống như graphit, nhưng thay vì có cấu trúc lục giác thuần túy, chúng có thể chứa 5 (hay 7) nguyên tử cacbon, nó uốn cong các lớp thành các dạng hình cầu, elip hay hình trụ. Các tính chất của các fulleren vẫn chưa được phân tách đầy đủ. cả thảy các tên gọi của các fulleren lấy theo tên gọi của Buckminster Fuller, nhà phát triển của kiến trúc mái vòm, nó bắt chước cấu trúc của các "buckyball".

    Sự phổ quát[sửa sửa mã nguồn]

    Cacbon là nguyên tố phổ quát thứ 4 trong vũ trụ về khối lượng sau hydro, heli, và ôxy. Cacbon có rất nhiều trong màng tang, các ngôi sao, sao chổi và bầu khí quyển của phần đông các hành tinh. Một số thiên thạch chứa các xoàn vi tinh thể, loại được hình thành khi hệ dữ vẫn còn là một đĩa tiền hành tinh. Các kim cương vi tinh thể này có thể đã được tạo ra bằng sức ép rất mạnh và nhiệt độ cao tại những nơi mà thiên thạch đó va.[sup][12][/sup]

    Có khoảng 10 triệu hợp chất khác nhau của cacbon mà khoa học đã biết và hàng nghìn trong số đó là tối quan trọng cho các quá trình của sự sống và cho các phản ứng trên cơ sở hữu cơ rất quan trọng về kinh tế. Trong tổ hợp với các nhân tố khác, cacbon được tìm thấy trong bầu khí quyển Trái Đất và hòa tan trong mọi thực thể có chứa nước. Với một lượng nhỏ hơn của canxi, magiê và sắt, nó tạo ra thành phần chính yếu của một lượng rất lớn đá cacbonat (đá vôi, đôlômit, đá đá hoa v.v.). Khi tổ hợp với hiđrô, cacbon tạo thành than, dầu mỏ và khí thiên nhiên, còn được gọi là các hiđrôcacbon.

    Graphit được tìm thấy với một số lượng lớn ở các bang New York và Texas (Mỹ); Nga; Mexico; Greenland và Ấn Độ.

    xoàn thiên nhiên có trong khoáng vật kimberlit tìm thấy trong các "cổ" hay "ống" núi lửa cổ đại. phần lớn các mỏ kim cương nằm ở châu Phi, đốn là Nam Phi, Namibia,Botswana, Cộng hòa Congo và Sierra Leone. Cũng có các mỏ ở Arkansas, Canada, vùng Bắc cực nước Nga, Brasil và ở miền bắc và tây nước Úc.

    Chu trình cacbon[sửa sửa mã nguồn]

    Bài chính: Chu trình cacbon

    Trong những điều kiện của Trái Đất, sự chuyển hóa từ một đồng vị sang một đồng vị khác là rất hiếm. vì thế, đối với các mục thực sự tiễn, khối lượng của cacbon trên Trái Đất có thể coi là một hằng số. bởi thế các quá trình sử dụng cacbon phải tiếp thu nó từ một nơi nào đó và giải phóng nó ở một nơi nào khác. Chu trình mà cacbon luân chuyển trong môi trường được gọi là chu trình cacbon. tỉ dụ, thực vật lấy cacbon điôxít từ môi trường và dùng nó để tạo ra khối lượng sinh học. Một số trong khối lượng sinh học này được động vật ăn, ở đó một phần chúng chung cục lại được thải ra dưới dạng cacbon điôxít. Chu trình cacbon trong thực tiễn phức tạp hơn nhiều so với tỉ dụ nhỏ này; thí dụ, một phần cacbon điôxít bị hòa tan trong nước biển; các động thực vật chết có thể trở nên đá trầm tích v.v.

    Đồng vị[sửa sửa mã nguồn]

    Cacbon có 2 đồng vị ổn định, có nguồn gốc thiên nhiên: cacbon-12, hay [sup]12[/sup]C, (98,89%) và cacbon-13, hay [sup]13[/sup]C, (1,11%),[sup][13][/sup] Năm 1961, Hiệp hội hóa học lý thuyết và vận dụng(IUPAC) đã chấp nhận đồng vị cacbon-12 làm cơ sở để đo khối lượng nguyên tử.[sup][14][/sup]

    Một đồng vị không ổn định, cũng có cội nguồn tự nhiên là đồng vị phóng xạ; cacbon-14 hay [sup]14[/sup]C. Đồng vị [sup]14[/sup]C có mặt nhiều trong không khí và lắng đọng trong các đối tượng sinh vật trên bề mặt đất, đặc biệt trong than bùn và các nguyên liệu hữu cơ khác.[sup][15][/sup] Đồng vị này phân rã bằng cách phát xạ hạt β[sup]−[/sup] có năng lượng 0,158 MeV, chúng được tạo ra trong khí quyển (thấp hơn tầng bình lưu và cao hơn tầng đối lưu) do nitơ phản ứng với các tia vũ trụ. Do chu kỳ bán rã có 5730 năm, [sup]14[/sup]C hầu như không có mặt trong các đá cổ,[sup][16][/sup] Sự phong phú của [sup]14[/sup]C trong khí quyển và trong các sinh vật sống luôn là một hằng số, nhưng chúng sẽ giảm sau khi sinh vật đó chết đi. Nguyên tắc này được dùng trong phương pháp định tuổi cacbon phóng xạ được phát minh năm 1949, đã được con người vận dụng rộng rãi để xác định tuổi của các nguyên liệu chứa cacbon với giới hạn lên đến khoảng 40.000 năm.[sup][17][/sup][sup][18][/sup] cốt là trong khảo cổ học.

    ngoại giả còn biết 15 đồng vị khác nữa và đồng vị có tuổi ngắn nhất là C[sup]8[/sup], nó phân rã theo bức xạ proton và phân rã alpha. Nó có chu kỳ bán rã là 1,98739x10[sup]−21[/sup] s.[sup][19][/sup] Đồng vị kích thích [sup]19[/sup]C mô tả tính chất của một hạt nhân halo, tức thị bán kính của nó có thể lớn hơn đánh kể so với bán kính dự đoán nếu hạt nhân nguyên tử là một khối hình cầu có tỷ trọng không đổi.[sup][20][/sup]

    Hình thành trong các ngôi sao[sửa sửa mã nguồn]

    Cacbon đã không được tạo ra trong Vụ Nổ Lớn (The Big Bang) vì thiếu các nguyên tố cấp thiết cho sự va ba của các hạt alpha (hạt nhân heli) để sinh sản nó. Vũ trụ đầu tiên được mở mang ra và bị làm nguội quá nhanh để điều này có thể xảy ra. Tuy nhiên, nó được sản xuất trong tâm của các ngôi sao trong nhánh ngang, ở đó các ngôi sao chuyển hóa nhân heli thành cacbon bằng các cách thức của quy trình ba-alpha. Nó cũng đã được tạo ra trong các trạng thái nguyên tử phức tạp.

    Chu trình cacbon[sửa sửa mã nguồn]
    Bài chi tiết: Chu trình cacbon
    [​IMG] Sơ đồ chu trình cacbon.

    Trong các điều kiện trên địa cầu, sự chuyển biến từ một nhân tố này thành một nguyên tố khác là rất hiếm. Dù vậy, hàm lượng cacbon trên địa cầu là không đổi. Do đó, các quá trình dùng cacbon phải tiêu thụ nó ở một nơi và thải ra ở một nơi khác. Những cách mà cacbon chuyển di trong môi trường tạo thành một chu trình gọi là chu trình cacbon. Một phần của sinh khối này được độn vật tiêu thụ, trong khi một lượng cacbon được động vật thảy ra ở dạng cacbon đi-ô-xít. Chu trình cacbon được xem là phức tạp hơn vòng tuần hoàn ngắn này; tỉ dụ như cacbon điôxít bị hòa tan trong các đại dương; thực vật chất hoặc xác động vật có thể hình thành nên dầu mỏ hoặc than, nếu đốt chúng sẽ thải ra cacbon.[sup][21][/sup][sup][22][/sup]

    ứng dụng[sửa sửa mã nguồn]

    Cacbon là các thành phần cần yếu cho mọi sự sống đã biết, và không có nó thì sự sống mà chúng ta đã biết không thể tồn tại (Xem Sự sống phi cacbon). Việc dùng kinh tế đẵn của cacbon là trong dạng các hiđrôcacbon, đẵn là các nhiên liệu hóa thạch như than, khí mêtan và dầu lửa (xăng dầu). dầu mỏ được sử dụng trong công nghiệp hóa dầu để sản xuất ra các sản phẩm như xăng và dầu hỏa, ưng chuẩn các quy trình chưng cất trong lọc dầu. dầu lửa cũng là nguồn nguyên liệu cho nhiều chất hữu cơ tổng hợp khác, rất nhiều trong số chúng gọi chung là các chất dẻo (plastic).

    Các ứng dụng khác[sửa sửa mã nguồn]
    • [*]Đồng vị Cacbon-14 được phát hiện vào ngày 27 tháng 2 năm 1940 và được sử dụng trong xác định niên đại bằng phóng xạ.[*]Một số các thiết bị phát hiện dùng một lượng nhỏ đồng vị phóng xạ của cacbon làm nguồn bức xạ ion hóa (phần đông các thiết bị như thế dùng đồng vị của Americi)[*]Graphit kết hợp với đất sét để tạo ra 'chì' sử dụng trong các loại bút chì.[*]xoàn được sử dụng vào mục đích trang sức hay trong các mũi khoan và các áp dụng khác đòi hỏi độ cứng cao của nó.[*]Cacbon được thêm vào quặng sắt để sinh sản gang và thép.[*]Cacbon dưới dạng than chì được dùng như là các thanh điều tiết nơtron trong các lò phản ứng hạt nhân.[*]Graphit cacbon trong dạng bột, bánh được dùng như là than để đun nấu, bột màu trong mỹ thuật và các sử dụng khác.[*]Than hoạt tính được sử dụng trong y tế trong dạng bột hay viên thuốc để thu nhận các chất độc từ hệ thống tiêu hóa hay trong các thiết bị thở.
    Các tính chất hóa học và cấu trúc của các fulleren, trong dạng các cacbon ống nano, có ứng dụng đầy hứa trong các lĩnh vực mới nảy của công nghệ nano.

    Lịch sử[sửa sửa mã nguồn]

    Ít ai nghĩ sợi carbon (Carbon fiber – CF) được sáng chế vào năm 1879 bởi Thomas Edison và được coi là loại sợi tổng hợp cổ nhất của loài người, lại có giá trị lớn lao đến thế đối với sự phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại. ban sơ, nhà phát minh này đã sử dụng sợi carbon làm dây tóc của bóng đèn. Mặc dù lúc đó sợi sợi carbon không giống như sợi carbon hiện tại, nhưng chúng lại có sức chịu đựng đáng kể với nhiệt độ, điều này khiến cho sợi carbon trở nên ý tưởng không tồi cho các loại sợi dẫn điện.

    Edison chế tác sợi carbon dựa trên chất xenluloza gồm có cotton hoặc tre, hoàn toàn không giống như sợi carbon hiện tại làm từ dầu mỏ. Sự carbon hóa được tiến hành từ việc đốt cháy các sợi tre ở nhiệt độ cao trong môi trường tiêu chuẩn dưới sự kiểm soát chém. Thomas Edison đã mất 40 giờ đốt cháy liên tục vật chất trên nhằm loại bỏ oxy, nitơ, hydro và chỉ giữ lại carbon để tạo ra những sợi carbon đầu tiên trên thế giới. Phương pháp chế tác trên được gọi là “nhiệt phân” và vẫn được dùng trong thời đại ngày nay. Kết quả là những sợi tre được “carbon hóa” có khả năng chịu lửa và nhiệt độ cao – điều kiện cấp thiết cho sự cháy sáng của dây tóc bóng đèn.

    Về sau, đến tận những năm 1950 khả năng kéo giãn của sợi carbon mới được khám phá. Người trước nhất được cho là tạo ra sợi carbon ngày nay có tên là Rayon. hiện tại, sợi carbon hiện đại được sinh sản bởi một nguyên liệu có tên là polyacrylonitrile (PAN), đây cũng là vật liệu được dùng để sinh sản hồ hết khối lượng sợi carbon ngày nay.

    sinh sản[sửa sửa mã nguồn]

    Than chì[sửa sửa mã nguồn]
    Bài chi tiết: Than chì
    Các mỏ than chì thiên nhiên có giá trị thương mại xuất hiện nhiều nơi trên thế giới, nhưng các nguồn quan yếu nhất có giá trị kinh tế tập kết ở Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và Bắc Hàn. Các mỏ than chì có cội nguồn biến chất, được tìm thấy cùng với thạch anh, mica và feldspar trong các đá phiến, gneiss và cát kết và đá vôi bị biến chất ở dạng thấu kính hoặc mạch, đôi khi có bề dày một mét hoặc lớn hơn. Các mỏ than chì ở Borrowdale, Cumberland, Anh đầu tiên có kích tấc và độ thuần khiết (cho đến thế kỷ 19) đủ để làm các cây bút chì bằng cách đơn giản là cưa chúng thành các que và lấp vỏ gỗ vào. hiện tại, các mỏ than chì nhỏ hơn được khai hoang bằng cách nghiền đá gốc và dùng phương pháp tuyển nổi để lấy than chì nhẹ hơn nổi trên mặt.[sup][23][/sup]

    Có 3 loại than chì tự nhiên gồm: vô định hình, than chì lớp, và mạch. Than chì vô định hình có chất lượng thấp và phổ quát nhất. Khác với khoa học, trong công nghiệp "vô định hình" ở đây đê cập đến kích thước tinh thể rất nhỏ thay vì không có một cấu trúc tinh thể rõ ràng. Dạng vô định hình được sử dụng cho các sản phẩm than chì có giá trị thấp và là than chì có giá thấp nhất. Một lượng lớn các mỏ than chì vô định hình được phát hiện ở Trung Quốc, châu Âu, Mexico và Hoa Kỳ. Than chì Flake ít phổ quát hơn và có chất lượng cao hơn dạng vô định hình; nó có mặt ở dạng các tấm tách biệt được kết tinh trong đá biến chất. Than chì Flake có thể đắt gấp 4 lần dạng vô định hình. Flake chất lượng tốt có thể được xử lý thành than chì có thể giãn nở được dùng cho nhiều mục đích khác nhau như chất chống cháy. Các mỏ quan yếu nhất của dạng này được tìm thấy ở Áo, Brazil, Canada, Trung Quốc, Đức và Madagascar. Than chì dạng mạch là hiếm nhất, có giá trị nhất, và là loại than chì tự nhiên có chất lượng cao nhất. Nó xuất hiện ở các dạng mạch dọch theo các nơi xúc tiếp với đá xâm nhập, và loại thương nghiệp được khẩn hoang chỉ có tại Sri Lanka.[sup][23][/sup]

    Theo USGS, sản lượng than chì thiên nhiên trên thế giới là 1,1 triệu tấn năm 2010, trong đó Trung Quốc là 800.00 tấn, Ấn Độ 130.000 tấn, Brazil 76.000 tấn, Bắc Hàn 30.000 tấn và Canada 25.000 tấn. Than chì không có nguồn gốc tự nhiên đã được vỡ hoang ở Hoa Kỳ, nhưng 118.000 tấn than chì tổng hợp có giá trị khoảng 998 triệu USD đã được sản xuất năm 2009.[sup][23][/sup]

    xoàn[sửa sửa mã nguồn]
    Bài chi tiết: kim cương
    Các hợp chất[sửa sửa mã nguồn]
    Bài chi tiết: Các hợp chất cacbon
    Hợp chất vô cơ[sửa sửa mã nguồn]
    Bài chi tiết: Hợp chất vô cơ
    Các hợp chất chứa cacbon phổ quát liên hệ đến các khoáng vật hoặc không chứa hydro hoặc flo được xem là một nhóm các hợp chất vô sinh biệt lập; tuy nhiên định nghĩa này là không cứng nhắc. Ôxít nổi danh nhất của cacbon là cacbon điôxít, CO[sub]2[/sub]. Nó là thành phần nhỏ của Khí quyển Trái Đất[sup][24][/sup], được dùng và sản sinh ra bởi các thực thể sống, và nó có mặt ở mọi nơi. Trong nước nó tạo thành một lượng nhỏ axít cacbonic, H[sub]2[/sub]CO[sub]3[/sub], nhưng giống như phần lớn các hợp chất với nhiều kết liên của các đơn nguyên tử ôxy trên một nguyên tử cacbon duy nhất là không bền.[sup][25][/sup] duyệt y trung gian này, các ion cacbonat ổn định hơn được tạo ra. Một số khoáng chất quan trọng là các cacbonat, nức danh nhất là canxít. Cacbon đisulfua, CS[sub]2[/sub], là rưa rứa.

    Các ôxít khác là cacbon mônôxít, CO và cacbon subôxít không phổ biến lắm, C[sub]3[/sub]O[sub]2[/sub]. Cacbon mônôxít được tạo ra do sự cháy không hết, và nó là chất khí không màu, không mùi. Các phân tử đều có liên kết ba và là phân cực thật sự, kết quả là chúng có khuynh hướng kết liên vĩnh cửu với các phân tử hemoglobin, nên chi khí này là một khí rất độc.[sup][26][/sup][sup][27][/sup] Xyanua, CN[sup]-[/sup], có cấu trúc tương tự và có các thuộc tính rất giống với các ion halua; nitrua xyanogen, (CN)[sub]2[/sub], là hao hao. thí dụ, nó có thể tạo thành phân tử cyanogen nitrit (CN)[sub]2[/sub]), na ná như halua 2 nguyên tử. Cá ôxít không phổ thông khác như cacbon suboxide (C[sub]3[/sub]O[sub]2[/sub]),[sup][28][/sup] dicacbon monoxit không bền (C[sub]2[/sub]O),[sup][29][/sup][sup][30][/sup] cacbon trioxit (CO[sub]3[/sub]),[sup][31][/sup][sup][32][/sup] cyclopentanepenton(C[sub]5[/sub]O[sub]5[/sub])[sup][33][/sup] cyclohexanehexon (C[sub]6[/sub]O[sub]6[/sub]),[sup][33][/sup] và mellitic anhydrit (C[sub]12[/sub]O[sub]9[/sub]).

    Khi phản ứng với các kim loại như tungsten, cacbon tạo thành các carbua (C[sup]4–[/sup]), hoặc acetylua (C[sub]2[/sub]2-) từ đó tạo ra các hợp kim có nhiệt độ nóng chảy cao. các anion này cũng phối hợp với metan và acetylen, cả hai đều là các axít rất yếu. Với độ âm điện 2,5,[sup][34][/sup] cacbon tạo nên các liên kết cộng hóa trị. Một vài cacbua có các ô mạng cộng hóa trị, giống như carborundum (SiC), có cấu trúc na ná xoàn.

    Hợp chất với kim loại[sửa sửa mã nguồn]

    Với các kim khí mạnh cacbon tạo ra hoặc là các cacbua, C[sup]-[/sup], hoặc các axetylua, C[sub]2[/sub][sup]2-[/sup]; các ion này có can hệ với mêtan và axetylen, cả hai đều là các axít rất yếu. Trên tất, với độ điện âm 2,55, cacbon có khuynh hướng tạo ra các liên kết cộng hóa trị. Một số cacbua là các lưới cộng hóa trị, giống như cacborundum, SiC, là chất giống với kim cương.

    Mạch cacbon[sửa sửa mã nguồn]

    Các hiđrôcacbon là một mạch của các nguyên tử cacbon, được bão hòa bởi các nguyên tử hiđrô. Các loại xăng dầu có mạch cacbon ngắn. Các chất béo có mạch cacbon dài hơn, và các loại sáp có mạch cacbon cực dài.

    Cảnh báo[sửa sửa mã nguồn]

    Cacbon tương đối an toàn. Tuy nhiên, việc hít thở vào một lượng khói lớn chứa thuần túy bồ hóng có thể gây nguy hiểm. Cacbon có thể bắt lửa ở nhiệt độ cao và cháy rất mãnh liệt (như trong Vụ cháy Windscale).

    Có nhiều hợp chất của cacbon là những chất độc chết người như các (xyanua, CN[sup]-[/sup]), hay cacbon mônôxít, CO và một số các chất có cội nguồn tự nhiên hay tổng hợp khác.

    Điều chế[sửa sửa mã nguồn]

    Cách để điều chế cacbon là dùng kim khí mạnh là nhôm hoặc ma-giê để khử một hợp chất oxit cacbon bất kì thành cacbon. Ví dụ:
    2Al + 3CO → Al[sub]2[/sub]O[sub]3[/sub] + 3C2Mg + CO[sub]2[/sub] → 2MgO + C
    Sau đó cho hẩu lốn vào một dung dịch axit (không có tính ôxi hóa mạnh) như HCl, H[sub]2[/sub]SO[sub]4[/sub] loãng để hòa tan Al[sub]2[/sub]O[sub]3[/sub] hoặc MgO, còn lại cacbon không tan, ta lọc cacbon ra khỏi dung dịch. Ngoài ra có thể điều chế cacbon theo các phương trình sau nhưng hiệu suất không cao do khí hiđro rất dễ bay lên:
    CO + H[sub]2[/sub] ↔ C + H[sub]2[/sub]O (Nhiệt độ khoảng 1050 độ C)CO + 3H[sub]2[/sub] → CH[sub]4[/sub]↑ + H[sub]2[/sub]O (Chất xúc tác: Niken, 250 độ C)CO[sub]2[/sub] + 4H[sub]2[/sub] → CH[sub]4[/sub]↑ + 2H[sub]2[/sub]O (Xúc tác, nhiệt độ cao, áp suất cao)CH[sub]4[/sub] → C + 2H[sub]2[/sub]↑ (Nhiệt độ trên 1000 độ C)[sup][cần dẫn nguồn][/sup]
    Tham khảo[sửa sửa mã nguồn]
  8. hyhyhy

    hyhyhy Thành viên

    Bài viết:
    1
    Được Like:
    0
    Con cua minh bam vao nut menu la tat nguon cao thu giu e
  9. Nam903Shi

    Nam903Shi Thành viên

    Bài viết:
    778
    Được Like:
    823
    Flash lại fw bạn ơi
  10. linhloi2007

    linhloi2007 Thành viên

    Bài viết:
    1
    Được Like:
    0
    Con SoftBank 740sc của mình khởi động lên bảo please insert usim card là sao các bạn? Lúc thì khởi động bị sọc đứng quá nhiều màu sắc, khi thì khởi động nghe tiếng mà không thấy gì hết. Có bạn nào biết chỉ hướng khắc dùm nghen! Thanks. Bạn nào có rom cho nó thì cho mình xin với nhé. Thanks
  11. phuongnm0120

    phuongnm0120 Thành viên

    Bài viết:
    22
    Được Like:
    2
    940sc có cách nào flash lại fw ko, máy m bị lỗi please wait...
    Tks