3G- Những cột mốc phát triển

Thảo luận trong 'Tin Tức Chung' bắt đầu bởi Lightblue, 5 Tháng sáu 2007.

  1. Lightblue Amie

    3G- Những cột mốc phát triển

    Công nghệ điện thoại di động phát triển không ngừng. Người ta đã đặt tên cho từng bước phát triển đó, từ 1G khi di động còn là điều mới lạ với thế giới đến 3G – khi điện thoại đã trở nên phổ biến, rồi 4G Là lúc “dế” trở thành một thiết bị đã được toàn cầu hóa.

    [​IMG]

    Thế hệ 1: Hầu hết các hệ thống đều là hệ thống analog và yêu cầu chuyển dữ liệu chủ yếu là âm thanh. Với hệ thống này, cuộc gọi có thể bị nghe trộm bởi bên thứ ba. Một số chuẩn trong hệ thống này là: NTM, AMPS, Hicap, CDPD, Mobitex, DataTac.

    Thế hệ 2: Tất cả các chuẩn của thế hệ này đều là chuẩn kỹ thuật số và được định hướng thương mại, bao gồm: GSM, iDEN, D-AMPS, IS-95, PDC, CSD, PHS, GPRS, HSCSD, WiDEN and CDMA2000 (1xRTT/IS-2000). Trong đó khoảng 60% số mạng hiện tại là theo chuẩn của châu Âu.

    [​IMG]

    Thế hệ 3 (3G): 3G là thế hệ thứ ba của chuẩn công nghệ điện thoại di động. Những dịch vụ kết hợp với 3G đem lại khả năng chuyển cùng một lúc cả dữ liệu âm thanh (cuộc gọi) và không phải âm thanh (ví dụ tải về các thông tin, gửi e-mail, tin nhắn tức thời). Trong hoạt động tiếp thị cho các dịch vụ 3G, điện thoại truyền hình vẫn được xem như một tính năng tiêu biểu cho 3G.

    Việc triển khai mạng 3G đã bị trì hoãn ở một số nước vì chi phí quá lớn. Ở nhiều nơi, mạng 3G không sử dụng cùng một bước sóng với mạng 2G, đòi hỏi nhà cung cấp mạng phải xây dựng những hệ thống mới hoàn toàn.

    [​IMG]

    Quốc gia đầu tiên đưa mạng 3G vào sử dụng rộng rãi là Nhật Bản. Vào năm 2001, NTT Docomo, một gã khổng lồ trong ngành viễn thông ở Nhật, là công ty đầu tiên ra mắt phiên bản thương mại của mạng W-CDMA. Đến năm 2005, có khoảng 40% số thuê bao chỉ sử dụng duy nhất mạng 3G ở quốc gia này, cùng với việc mạng 2G đang dần bị đẩy lùi. Sau khi mạng 2G được chuyển đổi hoàn toàn sang 3G, Nhật Bản hy vọng sẽ sớm nâng cấp lên thế hệ tiếp theo là 3.5G với tốc độ truyền dữ liệu 3 Mbit/s.

    Việc giới thiệu các dịch vụ 3G tại châu Âu được bắt đầu vào đầu năm 2003. Tại châu Phi, mạng 3G được giới thiệu đầu tiên ở Marôc vào cuối tháng 3 năm nay bởi công ty Wana. Một nhà cung cấp khác là Vodafone Ai Cập cũng sẽ khởi động dịch vụ này vào giữa năm.

    Theo GSA, đến tháng 12/2005, có khoảng 100 hệ thống mạng 3G được xây dựng tại 40 quốc gia trên thế giới. Tại châu Á, châu Âu và Mỹ, các công ty viễn thông sử dụng công nghệ W-CDMA với sự hỗ trợ của khoảng 100 terminal designs để vận hành hệ thống mạng 3G.

    Thành công của mạng 3G tại Nhật cho thấy, điện thoại truyền hình không phải là ứng dụng nổi bật nhất của 3G, mà chính là việc tải các bản nhạc qua một số dịch vụ như KDDI hay Chaku Uta.

    Từ 2G đến 3G

    Hiệp hội viễn thông quốc tế (ITU - International Telecommunication Union) định nghĩa những nhu cầu về thế hệ thứ ba của mạng di động bằng các tiêu chuẩn IMT-2000. Tổ chức 3GPP đã tiếp tục hoàn thiện nó bằng việc xác định một mạng lưới di động với tên gọi Hệ thống Viễn thống Di động toàn cầu (Universal Mobile Telecommunications System). Sự phát triển của hệ thống sẽ đi liền với các “phiên bản”. Trong mỗi phiên bản, các tính năng sẽ được phát triển thêm. Dưới đây là một số ví dụ trong số rất nhiều các phiên bản khác.

    Phiên bản ‘99


    - Các dịch vụ bearer
    - 64 Kbit/s circuit switched
    - 384 Kbit/s packet switched
    - Các dịch vụ định vị
    - Các dịch vụ cuộc gọi: tương thích với mạng GSM, dựa trên USIM.

    Phiên bản 4

    - Edge radio
    - Tin nhắn đa phương tiện
    - MeXe levels
    - Dịch vụ định vị được nâng cấp

    Phiên bản 5

    - IP Multimedia Subsystem (IMS)
    - IPv6, IP transport in UTRAN
    - Improvements in GERAN, Mexe
    - HSDPA

    Phiên bản 6

    - Tích hợp mạng không dây WLAN
    - Chuyển phát đa phương tiện
    - Nâng cấp IMS
    - HSUPA

    Các chuẩn 3G:

    • W-CDMA
    • CDMA2000
    • CDMA2001
    • TD-CDMA / TD-SCDMA
    • UWC-136 (thường đi cùng với EDGE)
    • DECT

    Có một số con đường khác nhau để chuyển từ mạng 2G sang 3G. Tại châu Âu, con đường chính được bắt đầu từ mạng GSM khi GPRS đã được bổ sung thêm vào hệ thống. Từ đây, hệ thống có thể phát triển lên hệ thống UMTS. Tại Bắc Mỹ, nó được bắt đầu từ mạng TDMA, chuyển sang EDGE rồi tiếp đó chuyển sang hệ thống UMTS.
    Tại Nhật Bản, mạng 3G được sử dụng với 2 chuẩn: NTT Docomo, Vodafone KK sử dụng chuẩn W-CDMA (tương thích với UMTS). Còn KDDI sử dụng chuẩn CDMA2000 và đã rất thành công.

    [​IMG]

    Công nghệ mới đi sau GSM là GPRS (General Packet Radio Service). Nó là bước khởi đầu cho các dịch vụ 3G. Điểm cốt lõi ở đây là kết nối của hệ thống luôn luôn mở, vì vậy các thuê bao online tại bất kì thời điểm nào. Từ khía cạnh nhà cung cấp, điều quan trọng là việc đầu tư cho GPRS có thể được sử dụng lại khi chuyển tiếp sang UMTS. Việc thừa hưởng các kinh nghiệm kinh doanh từ GPRS cũng rất quan trọng.

    Từ GPRS, các nhà cung cấp có thể chuyển trực tiếp lên UMTS, nhưng họ cũng có thể đầu tư vào hệ thống EDGE. Lợi thế của hệ thống EDGE là không mất thêm phí bản quyền như UMTS. Các tần số mạng cũng có thể sử dụng lại và không phải lắp đặt thêm ăng-ten. Tuy nhiên, người dùng sẽ phải mua các thiết bị mới hỗ trợ hệ thống mạng EDGE

    CÁC ĐẶC TÍNH CỦA MẠNG 3G

    Đặc điểm nổi bật nhất của mạng 3G là khả năng hỗ trợ một lượng lớn các khách hàng trong việc truyền tải âm thanh và dữ liệu – đặc biệt là ở các vùng đô thị - với tốc độ cao hơn và chi phí thấp hơn mạng 3G.

    3G sử dụng kênh truyền dẫn 5 MHz để chuyển dữ liệu. Nó cũng cho phép việc truyền dữ liệu ở tốc độ 384 Kbps trong mạng di động và 2 Mbps trong hệ thống tĩnh. Người dùng hy vọng mạng 3G sẽ được phát triển hiệu quả hơn nữa, để các khách hàng của các mạng 3G khác nhau trên toàn cầu có thể kết nối với nhau.

    Kết cấu phân tầng: Hệ thống UMTS dựa trên các dịch vụ được phân tầng, không giống như mạng GSM. Ở trên cùng là tầng dịch vụ, đem lại những ưu điểm như triển khai nhanh các dịch vụ, hay các địa điểm được tập trung hóa. Tầng giữa là tầng điều khiển, giúp cho việc nâng cấp các quy trình và cho phép mạng lưới có thể được phân chia linh hoạt. Cuối cùng là tầng kết nối, bất kỳ công nghệ truyền dữ liệu nào cũng có thể được sử dụng và dữ liệu âm thanh sẽ được chuyển qua ATM/AAL2 hoặc IP/RTP.

    NHÀ CUNG CẤP MẠNG VÀ HỆ THỐNG VIỄN THÔNG DI ĐỘNG TOÀN CẦU

    Lý do chính của việc chuyển sang mạng 3G là khả năng hạn chế của mạng 2G. Thế hệ thứ hai này được xây dựng chủ yếu cho các cuộc gọi điện thoại và chuyển dữ liệu tốc độ thấp. Do sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, những yếu tố này đã không còn đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng không dây. Sự phát triển của công nghệ 2.5G (hay thậm chí là 2.75G) như các dịch vụ i-mode, điện thoại máy ảnh, HSCSD và GPRS chính là cầu nối dẫn đến sự chuyển đổi sang mạng 3G. Tuy nhiên đó chỉ là những giải pháp tạm thời, hay nói cách khác, đó là cách để giới thiệu đến người tiêu dùng những khả năng có thể có trong tương lai của công nghệ không dây. Mặt khác, nó cũng cần thiết để các nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ sở hạ tầng đảm bảo có một môi trường lành mạnh để vận hành công nghệ mới.

    Cuộc cách mạng từ thế hệ mạng di động thứ hai (2G) sang mạng 3G không thể thiếu được sự có mặt của các nhà cung cấp dịch vụ mạng. Đến năm 2005, đã có khoảng 23 mạng 3G trên toàn cầu, một vài mạng trong số đó mới chỉ được chạy thử nghiệm nhưng cũng có mạng đã được đưa vào hoạt động.

    Các nhà cung cấp dịch vụ mạng đã đầu tư một số tiền không nhỏ vào hệ thống mạng 2G hiện tại. Những mạng này mới chỉ hoạt động khoảng 10 đến 15 năm và vẫn chưa thu hồi hết vốn đầu tư. Chính vì thế, họ phải tìm cách sử dụng lại những phần đã đầu tư để xây dựng mạng 3G.

    Một điều khác nữa mà các nhà cung cấp cần nghĩ đến là vai trò của họ trong quá trình chuyển đổi này. Họ sẽ không chỉ là những nhà cung cấp hệ thống mà còn là nhà cung cấp dịch vụ. Họ cần tạo ra sự khác biệt cho bản thân trên thị trường, tập trung nhiều hơn vào nội dung cho các sản phẩm và dịch vụ. Với công nghệ mới 3G, thị trường sẽ có rất nhiều nhà cung cấp dịch vụ vì bất cứ ai cũng có thể tự xây dựng nội dung và bán trực tiếp đến người tiêu dùng. Vì thế, các nhà cung cấp mạng cũng sẽ phải thích nghi được với những thay đổi này.

    4G

    Đến nay chưa có một định nghĩa chuẩn thế nào là mạng 4G. Tuy nhiên, những đặc điểm chính của mạng 4G có thể tóm tắt như sau:

    Mạng 4G sẽ là một hệ thống các hệ thống được tích hợp dựa trên IP và mạng lưới các mạng lưới có được sau khi kết hợp tất cả các hệ thống không dâu và có dây, cũng như máy tính, các thiết bị điện tử, công nghệ truyền thông và một vài sự kết hợp khác, hệ thống này có khả năng cung cấp đường truyền 100 Mbps và 1 Gbps, riêng cho từng cá nhân, ở môi trường trong nhà hoặc ngoài trời với chất lượng dịch vụ hoàn hảo, bảo mật cao, cung cấp bất kì loại dịch vụ nào vào bất kì thời điểm nào, tại bất kỳ đâu với một mức giá chấp nhận được và tập trung vào chỉ 1 hóa đơn.

    Diễn đàn nghiên cứu thế giới không dây (WWRF) định nghĩa 4G là một mạng lưới hoạt động dựa trên công nghệ Internet, kết hợp với các ứng dụng và các công nghệ khác như Wi-Fi, WiMAX và hoạt động ở tốc độ từ 100 Mbps (trong mạng điện thoại di động) đến 1 Gbps (trong mạng Wi-Fi nội bộ). 4G không phải là một công nghệ hay một tiêu chuẩn, mà nó là sự kết hợp của nhiều công nghệ, nhiều giao thức nhằm đưa ra được một mạng không dây có khả năng lớn nhất với chi phí thấp nhất.

    Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, sự tiến bộ của khoa học và tốc độ tăng trưởng vũ bảo của ngành công nghiệp mobile đã đưa chúng ta tới một kỷ nguyên mới trong viễn thông di động. Từ thế hệ thứ nhất cho tới thế hệ thứ 3 (3G) và sắp tới là thế hệ thứ 4 (4G) giúp loài người xích lại gần nhau hơn. Nhờ những công nghệ mới này mà chỉ với chiếc điện thoại nhỏ bé, chúng ta có thể nhìn thấy nhau bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu, xem chương trình truyền hình yêu thích, không những thế còn có thể chia sẻ hình ảnh, lướt web hay gửi nhận tệp tin mọi lúc mọi nơi. Mọi khoảng cách giờ đây đã được rút ngắn lại hơn bao giờ hết.

    E CHIP MOBILE