Trong 20 năm qua, việc sử dụng thiết bị đeo GPS trong thể thao đã tăng lên đáng kể. Catapult Sports, một công ty công nghệ thể thao đã phát triển nguyên mẫu đầu tiên vào năm 2000: một thiết bị dạng ống dài 7,62 cm. Allan Hahn, một trong những nhà khoa học tham gia dự án cho biết: “Chúng tôi nghĩ thật tuyệt vời khi chúng tôi có thể nhận được thông tin từ những vật nhỏ bé.Tất nhiên, theo tiêu chuẩn bây giờ, nó khá lớn”. Hiện nay, Catapult được sử dụng bởi hơn 100 đội bóng đá trên toàn thế giới, 19 đội bóng đá Mỹ, 18 đội bóng rổ, bao gồm Golden State Warriors, nhà vô địch thế giới đến từ California, cũng như các đơn vị hỗ trợ các đội Olympic tại hơn 25 quốc gia.
Mặc dù thiết bị GPS gắn trên người khá phổ biến ở các cơ sở đào tạo từ lâu nhưng gần đây chúng mới được triển khai trong các trận đấu đối kháng. Tháng 2 năm 2015, Liên đoàn Bóng đá Quốc tế đã phê duyệt việc sử dụng phương tiện theo dõi điện tử trong danh sách đồ đạc chính thức,vừa kịp trước thời điểm tổ chức World Cup Nữ năm đó tại Canada. Vào tháng 3 năm 2018, FIFA thông báo rằng các đội được cho phép chuyển dữ liệu và giao tiếp với huấn luyện viên trong suốt trận đấu.
Lần đầu tiên, thông tin thu thập được có khả năng ảnh hưởng đến trận đấu. Barry McNeill, một giám đốc điều hành cấp cao của Catapult cho biết, các huấn luyện viên sẽ được thông báo nhanh về cường độ suy giảm thể lực ở cầu thủ. Về lý thuyết, điều này sẽ khiến giảm được thời gian bóng chết và phạm lỗi bởi khi mệt mỏi khả năng đưa ra quyết định chính xác của các cầu thủ sẽ giảm. Nó sẽ đặc biệt hữu ích trong việc xác định vị trí thứ 4 cần được thay thế trong khoảng thời gian bù giờ.
Thiết bị GPS có thể ghi lại hàng trăm số đo mỗi giây, phân tích và định lượng kích thước vật lý thành các thành phần khác nhau trong thể thao: từ tổng khoảng cách đến số lần tăng tốc, từ nhịp tim đến lực tác động của các vật cản. Vì các thiết bị GPS giờ đây được sử dụng cả trong các buổi huấn luyện và trận đấu, ở các câu lạc bộ trong nước và đội tuyển quốc gia, nên dữ liệu cho phép huấn luyện viên không chỉ định lượng nhu cầu sinh lý cụ thể cho mỗi trận đấu mà còn đảm bảo rằng các cầu thủ đang được huấn luyện đúng phương pháp. Ví dụ, một vài thành viên của đội Brazil vẫn chơi ở giải đấu trong nước, nơi các trận đấu có tốc độ chậm hơn so với bóng đá quốc tế. Guilherme Ramos, một nhà sinh lý học tại Liên đoàn bóng đá Brazil, giải thích cho những cầu thủ này về việc họ sẽ cần nỗ lực như thế nào khi tham gia World Cup để “bất cứ khi nào chơi với một đội bóng nhỏ trong nước, họ vẫn ý thức được về cường độ cao cần có khi chơi cho đội tuyển quốc gia”.
Đào tạo cầu thủ cho những khoảnh khắc quan trọng nhất của một trận đấu bóng đá là điều rất quan trọng khi họ phải chạy nước rút liên tục và chỉ có một vài giây nghỉ phục hồi. Tim Gabbett, một nhà khoa học thể thao thường xuyên làm việc với những cầu thủ nổi tiếng của các câu lạc bộ Barcelona Football Club và Cirque du Soleil, gọi những khoảnh khắc này là “kịch bản xấu nhất”. Một cầu thủ có thể thường xuyên hoàn thành 10km trong một trận cầu, nhưng chỉ đảm bảo họ đạt mức tương tự mỗi tuần là chưa đủ. “Cầu thủ cần tập luyện cho những khoảnh khắc quan trọng. Họ là những người mệt mỏi nhất và việc này thường xảy ra trước khi bàn thắng được ghi”, anh nói. Bóng đá không chỉ là vấn đề chạy nhanh hơn và lâu hơn: cầu thủ mệt sẽ dễ mắc lỗi.
Sử dụng dữ liệu GPS để quy định chính xác khối lượng đào tạo không chỉ là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu suất; điều quan trọng là đảm bảo rằng cầu thủ có thể thực hiện tất cả giáo trình đó. Trong một nghiên cứu năm 2016 được công bố trên Tạp chí Y học Thể thao Anh, Gabbett và cộng tác viên từ Đại học Wollongong đã phân tích dữ liệu được cung cấp bởi 53 cầu thủ bóng bầu dục hàng đầu trong suốt hai mùa giải. Họ phát hiện ra rằng sự gia tăng tỷ lệ giữa “khối lượng công việc” được tích luỹ trong tuần qua và hơn 28 ngày trước đó có liên quan đến việc tăng nguy cơ chấn thương. Trong các nghiên cứu tiếp theo, họ phát hiện ra rằng khi một người chơi làm việc gấp đôi trong tuần so với cường độ trung bình trong tháng trước, thì nguy cơ bị chấn thương sẽ tăng 15%. Việc phân tích dữ liệu sẽ đặc biệt hữu ích cho các huấn luyện viên tại World Cup, khi các cầu thủ mới vừa hoàn thành mùa giải vất vả với các câu lạc bộ của mình. “Nếu một cầu thủ trở về thi đấu cho đội tuyển quốc gia mà câu lạc bộ không chia sẻ bất kỳ thông tin GPS nào về anh ta, thì các huấn luyện viên thực sự không biết cường độ tập luyện tối ưu cho cầu thủ đó như thế nào”, Gabbett nói.
Đó không phải là trường hợp của những người Brazil. Vào tháng 3, huấn luyện viên của Brazil, Fábio Mahseredjian đã đến châu Âu để gặp gỡ các đồng nghiệp của mình tại Barcelona, Real Madrid, Paris Saint-Germain và Manchester City, nơi một số ngôi sao hàng đầu của đội hiện đang chơi. Mahseredjian yêu cầu đội bóng điền vào một biểu mẫu dài bốn trang bao gồm các câu hỏi liên quan đến thành phần cơ thể của cầu thủ, lịch sử chấn thương gần đây, dinh dưỡng, các chương trình đào tạo cá nhân và dữ liệu GPS. Sau World Cup, Liên đoàn Brazil sẽ trả ơn, và gửi báo cáo cho từng câu lạc bộ trong đó có chi tiết khối lượng công việc mà cầu thủ phải trải qua trong suốt giải đấu.
Các nhân viên thể thao Brazil tuyên bố rằng kể từ khi cầu thủ bắt đầu sử dụng thiết bị GPS vào năm 2015, các chấn thương mô mềm rất hiếm gặp. Nhà sinh lý học Ramos nhớ lại rằng trong Thế vận hội Rio năm 2016, ông cần phải cảnh báo với Neymar về số lần chạy nước rút cường độ cao mà thiết bị GPS của anh báo cáo trong quá trình luyện tập. “Chúng tôi đã phải nói anh ta cần chậm lại hoặc nếu không sẽ bị thương”.
Nguyễn Huyền