Tỷ lệ phần mềm không bản quyền được cài đặt trong máy tính cá nhân của Việt Nam trong năm 2017 là 74%.  So với nghiên cứu được công bố năm 2016, tỉ lệ này đã giảm được 4%, tuy nhiên vẫn còn ở mức khá cao.

Theo kết quả khảo sát được Liên minh Phần mềm toàn cầu (BSA) công bố ngày 12/6, tình trạng sử dụng phần mềm trái phép tuy có giảm nhẹ nhưng vẫn còn phổ biến. 
Cụ thể, tỷ lệ cài đặt phần mềm trái phép đã giảm 2% trong 2 năm qua, nhưng tỷ lệ sử dụng phần mềm trái phép vẫn ở mức báo động, chiếm 37% lượng phần mềm được cài đặt trên máy tính cá nhân. Giá trị thương mại tổng thể của phần mềm trái phép cũng đã giảm, nhưng đa số các quốc gia trong cuộc khảo sát đều có tỷ lệ phần mềm trái phép từ 50% trở lên.
Khảo sát còn cho thấy ở mức 57%, giảm 4% so với nghiên cứu tương tự được BSA công bố năm 2016, châu Á – Thái Bình Dương cùng với Trung và Đông Âu là 2 khu vực có tỷ lệ sử dụng phần mềm không bản quyền cao nhất trong 6 khu vực mà BSA và IDC nghiên cứu. 
Khu vực có tỷ lệ sử dụng phần mềm không bản quyền cao thứ ba là Trung Đông – châu Phi, ở mức 56% (giảm 1% so với năm 2016); tiếp đến là Mỹ Latinh, ở mức 52% (giảm 3% so với năm 2016). Tây Âu có tỷ lệ phi phạm 26%, giảm 2%. Bắc Mỹ là khu vực có tỷ lệ vi phạm thấp nhất thế giới, ở mức 16%, giảm 1%.
Đáng chú ý, theo kết quả khảo sát, tỷ lệ phần mềm không bản quyền được cài đặt trong máy tính cá nhân của Việt Nam là 74%. Như vậy, từ năm 2009 đến nay, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm máy tính ở Việt Nam đã giảm liên tục, từ mức 85% năm 2009 xuống còn 74% vào năm 2017.
Theo đánh giá của các chuyên gia, tỷ lệ này cho thấy nỗ lực không nhỏ của các cơ quan, tổ chức tại Việt Nam. Ông Phạm Cao Thái, Chánh thanh tra Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cho rằng điều này đánh dấu mốc quá trình Việt Nam phấn đấu thực thi tốt Luật Sở hữu trí tuệ, đặc biệt là chống vi phạm bản quyền phần mềm máy tính.
Theo các chuyên gia tỉ lệ phần mềm không phép giảm chủ yếu là kết quả của việc Việt Nam tiếp tục mở cửa thị trường, thực thi luật, tuyên truyền chứ không phải một yếu tố nội tại của thị trường. 
Số lượng cơ sở bán lẻ máy PC quy mô nhỏ đã giảm trong khi các nguồn cung cấp phần mềm đáng tin cậy hơn tăng. Các lo ngại về vấn đề an ninh do sử dụng phần mềm không bản quyền khiến một số người tiêu dùng, doanh nghiệp tìm đến phần mềm hợp pháp, phần mềm an ninh.
BSA cũng cho hay, các giám đốc công nghệ thông tin đã dần nhận thấy việc sử dụng phần mềm trái phép ngày càng tốn kém và gây nhiều rủi ro. 
Hiện tại, nguy cơ các tổ chức gặp phải phần mềm độc hại khi tiếp nhận hoặc cài đặt một gói phần mềm trái phép hay mua một chiếc máy tính cài sẵn phần mềm trái phép là một phần ba. Trung bình, mỗi cuộc tấn công bởi phần mềm độc hại có thể tiêu tốn của công ty 2,4 triệu USD và mất tới 50 ngày để khắc phục.
Trong trường hợp việc nhiễm phần mềm độc hại khiến công ty phải ngừng hoạt động hoặc mất dữ liệu kinh doanh, có thể thương hiệu và danh tiếng của công ty cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. 
Chi phí cho việc xử lý phần mềm độc hại có liên quan đến phần mềm trái phép cũng đang tăng lên. Giờ đây, một công ty có thể phải tốn hơn 10.000 USD cho mỗi máy tính bị nhiễm phần mềm độc hại, và tính tổng cộng thì các công ty trên toàn thế giới phải tốn gần 359 USD tỷ một năm. 
Hiện tại, lý do hàng đầu mà các CIO viện dẫn cho việc đảm bảo phần mềm trên mạng lưới của họ được cấp phép đầy đủ là để tránh các mối đe dọa về bảo mật từ phần mềm độc hại.
Bà Victoria Espinel, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc BSA cho rằng, các tổ chức trên toàn thế giới chưa tranh thủ được những lợi ích kinh tế và an ninh mà các phần mềm được quản lý tốt đem lại. 
Doanh nghiệp cần có các chương trình quản lý tài sản phần mềm để đánh giá các phần mềm hiện có trên mạng, từ đó giảm rủi ro từ các cuộc tấn công mạng nguy hiểm, góp phần nâng cao thu nhập.