Omega Speedmaster ban đầu được thiết kế không phải với mục đích phục vụ cho các chuyến du hành vũ trụ. Mà vào năm 1957, nó được giới thiệu như một chiếc đồng hồ bấm giờ thể thao “chronograph”, và đó cũng là chiếc đồng hồ đeo tay “chronograph” đầu tiên của Omega, với mục đích sử dụng để đo đếm thời gian cho các cuộc đua xe. Nguyên mẫu Omega Speedmaster đầu tiên này được sử dụng bộ máy cơ khí huyền thoại Omega Calibre 321 lên giây cót thủ công, được phát triển bởi nhà sản xuất máy đồng hồ Lemania. Thiết kế mặt số và kim “broad arrow” cùng vành bezel đếm thời gian Tachymetre mục đích cho người dùng dễ dàng xem giờ và kiểm tra vòng quay Chronograph nhất.
Chiếc Omega Speedmaster Professional nguyên mẫu năm 1957 (Ảnh: Wikipedia.org)
Hành trình của Omega Speedmaster Professional đi vào vũ trụ bắt đầu vào ngày 3/10/1962 khi phi hành gia Wally Schirra đã dùng chiếc đồng hồ này (của các nhân ông) vào phiên bản năm đó (mang mã CK2998) mang lên tàu vũ trụ Mercury –Atlas 8. Để được Nasa chính thức lựa chọn, Omega Speedmaster đã phải trải qua những bài kiểm tra chất lượng, độ bền, độ ổn đinh… vô cùng khắt khe cùng với những đối thủ “sừng sỏ” là Rolex, Longines, Wittnauer.
Dường như Omega Speedmaster Professional đã trở thành vật bất ly thân của các phi hành gia Mỹ (Ảnh: Wikipedia.org)
Nhiệt độ cao: 48 giờ ở nhiệt độ 160°F (71°C), tiếp theo đó là 30 phút ở 200°F (93°C). Nhiệt độ thấp: 4 giờ ở nhiệt độ 0°F (-18°C). Nhiệt độ – Áp suất: Tăng nhiệt độ lên 71°C trong 45 phút, sau đó giảm nhiệt xuống -18°C trong 45 phút trong áp suất 10-6 atm, lặp lại 15 lần. Độ ẩm: 240 giờ ở nhiệt độ từ 68°F đến 160°F (20°C – 71°C) với độ ẩm khoảng 95%. Khí oxy: 48 giờ trong bầu khí quyển 100% oxy ở áp suất 0,35 atm. Sốc: Sáu cú va chạm 40G, mỗi cú va chạm trong khoảng thời gian 11 mili giây, theo sáu hướng khác nhau.
Phi hành gia Aldrin với chiếc Omega Speedmaster trên tay phải khi thực hiện nhiệm vụ trên mặt trăng (Ảnh: wikipedia.org)
Gia tốc: Từ 1G đến 7,25 G trong vòng 333 giây, theo một trục song song với chiều dọc của tàu vũ trụ. Áp suất thấp: 90 phút trong chân không 10-6 ATM với nhiệt độ 160°F (71°C) và 30 phút ở 200°F (93°C). Áp suất cao: 1,6 ATM trong thời gian tối thiểu là một giờ. Rung động: Ba chu kỳ 30 phút dao động khác nhau từ 5 đến 2000 Hz. Tiếng ồn: 130 dB trên dải tần số từ 40 đến 10.000 Hz, thời lượng 30 phút.
Các bài kiểm tra hoàn thành vào 1/3/1965 và duy nhất Omega Speedmaster vượt qua được toàn bộ các cuộc thử nghiệm. Và chuyến bay vào không gian đầu tiên của “Speedy” vào 23/3/1965 trên tàu Gemini 3 và “chuyến đi bộ trong không gian đầu tiên” của phi hành gia Ed White (tàu Gemini 4) với chiếc Omega Speedmaster đeo bên ngoài tay áo.
Phi hành gia Neil Amstrong với chiếc Omega Speedmaster ngay trên tàu Apollo 11 (Ảnh: Wikipedia.org)
Lịch sử một lần nữa ghi nhận một trong những dấu mốc quan trọng nhất trong lịch sử loài người và cũng là dấu mốc lịch sử của Speedmaster và thương hiệu Omega khi vào năm 1966, Neil Armstrong là người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng, sau ông là Buzz Aldrin với chiếc Omega Speedmaster (mã 105.012) trên cổ tay. Chiếc Speedy của Neil Armstong được để lại trong tàu Apollo 11 để dự phòng khi mà các thiết bị đo đếm thời gian điện tử của tàu hoạt động không chính xác, điều này càng khẳng định chất lượng và độ tin cậy của Omega Speedmaster.
Tất nhiên khi hai nhà du hành trở về, họ trở thành những người anh hùng và chiếc đồng hồ của Buzz Aldrin là một báu vật. Thật tiếc nó đã bị đánh cắp ngay sau đó và không bao giờ được tìm thấy.
Kể từ đó, Omega Speedmaster Professional trở thành chiếc đồng hồ “ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT” lên mặt trăng, nó được ưu ái gọi bằng cái tên “Moonwatch” và là biểu tượng của Omega và luôn nằm trong những chiếc đồng hồ nổi tiếng nhất trên thế giới.
Máy Cal 321 trên Omega Speedmaster Professional (Ảnh:Wikipedia.org)
Sau này, rất nhiều phiên bản Omega Speedmaster Professional được sản xuất với rất nhiều kiểu mặt số, vành bezel và mặt kín, các phiên bản đặc biệt kỷ niệm các dấu mốc quan trọng của Nasa cũng được sản xuất. Ngay cả bộ máy cũng được thay thế từ Cal. 321 thành Cal. 861 rồi 1861 và 1863 nhưng tất cả đều mang đặc điểm chung là lên giây cót thủ công và đều “base” trên máy của Lemania và hoạt động cực kỳ chính xác và ổn định trong nhiều năm – điều mà không nhiều mẫu đồng hồ Chronograph có thể làm được.
Chiếc Omega Speedmaster Professional đã khác xa so với những chiếc đồng hồ huyền thoại lên mặt trăng. Nhưng độ “chất” của chiếc đồng hồ này vẫn không hề thay đổi.
Với chất lượng đỉnh cao và gắn liền với những dấu mốc quan trọng nhất của loài người trong thế kỷ 20, “Moonwatch” là chiếc đồng hồ “phải có” của mọi nhà sưu tập. Phiên bản sản xuất đại trà mới nhất của Omega Speedmaster Professional hiện đang được bán với giá hoảng 5000$, và chúng tôi xin trích lời tạp chí Hodinkee: “Điều đó có nghĩa là bạn có thể mua một Speedmaster tuyệt vời ngay hôm nay và biến nó thành của riêng bạn – viết tên bạn lên những giấy tờ của đồng hồ, sở hữu nó và tận hưởng nó mỗi ngày trong suốt cuộc đời của bạn. Và khá thẳng thắn, tôi không nghĩ rằng có một cách tốt hơn để chi tiêu 5.000 đô la cho một chiếc đồng hồ mới trên thế giới”
Cảm ơn thương hiệu NOSTIME đã hỗ trợ chúng tôi để hoàn thành bài viết